Ngày đăng 27/03/2021 | 03:47 PM

Chú trọng công tác hoàn thiện thể chế - nhiệm vụ then chốt của ngành Xây dựng

Lượt xem: 156  |  Chia sẻ: 0
(AMC) Chú trọng công tác hoàn thiện thể chế - nhiệm vụ then chốt của ngành Xây dựng


CHÚ TRỌNG CÔNG TÁC HOÀN THIỆN THỂ CHẾ -

NHIỆM VỤ THEN CHỐT CỦA NGÀNH XÂY DỰNG

 

Nguyên Hương

 

Ngành Xây dựng bước vào triển khai các nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 2016 - 2020 trong bối cảnh tình hình chính trị - xã hội ổn định, lạm phát được kiểm soát. Nhiều giải pháp, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, cải cách hành chính đã đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng, hiệu quả tích cực. Khu vực xây dựng vẫn duy trì đà tăng trưởng khá. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và ngành Xây dựng nói riêng còn thấp, năng suất lao động chưa cao,... Bộ Xây dựng, ngành Xây dựng cả nước đã kịp thời quán triệt nghiêm túc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội khóa XIV và Chính phủ về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, tập trung xây dựng các chương trình hành động, xác định đúng các nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp cụ thể, khả thi và nỗ lực, quyết tâm cao, đạt được nhiều kết quả, chuyển biến tích cực và quan trọng.

THỰC HIỆN TỐT CÁC CHỈ TIÊU, KẾ HOẠCH 2016-2020

Ngành đã cơ bản hoàn thành 05 nhóm chỉ tiêu đề ra trong Kế hoạch 05 năm 2016 – 2020. Tốc độ tăng trưởng ngành xây dựng bình quân 8,5% - 8,7%/năm (mục tiêu trong Kế hoạch 05 năm cả nước là phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp, xây dựng bình quân từ 8,0 - 8,5%/năm). Tỷ lệ đô thị hóa: Ước đạt khoảng 40% vào cuối năm 2020 (đạt so với chỉ tiêu trong Kế hoạch 05 năm của cả nước 38 - 40%). Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung ước đến năm 2020 đạt khoảng 90%. Tính đến năm 2018, tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh ở thành thị là 99,5%, nông thôn là 90,8% (đạt mục tiêu trong Kế hoạch 05 năm của cả nước là “95% dân cư thành thị được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh”). Quy hoạch chung xây dựng đô thị và quy hoạch xây dựng nông thôn đều đạt 100%; Quy hoạch phân khu đạt 78% và quy hoạch chi tiết đạt khoảng 39% so với diện tích đất xây dựng đô thị. Tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt tại đô thị: ước đến năm 2020 đạt khoảng 91% (mục tiêu đề ra trong Kế hoạch là 90% chất thải rắn thông thường được xử lý đạt tiêu chuẩn).

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ

Ngành đã tập trung nghiên cứu, sửa đổi, thực hiện tổng kết, đánh giá toàn diện tình hình thực hiện chính sách, pháp luật thuộc các lĩnh vực quản lý của ngành; phát hiện những vướng mắc, bất cập để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp. Hoàn thiện hồ sơ, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, thông qua các văn bản pháp luật mới, điều chỉnh, bổ sung và ban hành theo thẩm quyền 107 văn bản quy phạm pháp luật và 53 đề án.

Phối hợp với các Bộ, ngành rà soát, đề xuất xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trực tiếp đến lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch...).

Việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có nhiều nội dung đổi mới, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, giải quyết các vướng mắc, bất cập trong thực tiễn.

Công tác cấp giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng từng bước đi vào nề nếp

Công tác quản lý đầu tư xây dựng tạo lập được thị trường xây dựng cạnh tranh, bình đẳng, công bằng, minh bạch

Hệ thống các công cụ quản lý chi phí đầu tư xây dựng được sửa đổi, bổ sung, ngày càng đồng bộ, đầy đủ, góp phần tạo lập thị trường xây dựng cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch, hạn chế tham nhũng, thất thoát và lãng phí. Đã và đang triển khai thực hiện hiệu quả 03 đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: “Hoàn thiện hệ thống định mức và giá xây dựng”, “Đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật ngành xây dựng đến 2020, tầm nhìn đến năm 2030” và “Áp dụng mô hình thông tin công trình (BIM) trong hoạt động xây dựng và quản lý vận hành công trình”.

Công tác cấp giấy phép xây dựng và quản lý xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng từng bước đi vào nề nếp. Công tác thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý sai phạm trong hoạt động xây dựng được tăng cường bằng nhiều hình thức.  Chủ động đề xuất cải cách thủ tục hành chính về cấp giấy phép xây dựng tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng: mở rộng đối tượng công trình được miễn giấy phép xây dựng; rút ngắn thời gian cấp giấy phép xây dựng đối với công trình từ 30 ngày xuống còn 20 ngày; đơn giản hóa điều kiện, hồ sơ cấp phép, đơn giản hóa thủ tục hành chính; tích hợp thủ tục thẩm định thiết kế xây dựng và cấp phép xây dựng đối với công trình sử dụng vốn nhà nước ngoài đầu tư công, vốn khác.

Công tác quản lý đầu tư xây dựng được đổi mới và tăng cường theo quy định của Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn thực hiện, đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng công trình, chống thất thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Chất lượng các công trình xây dựng trong cả nước về cơ bản được đảm bảo, chất lượng các công trình trọng điểm, có quy mô lớn được kiểm soát chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật, yêu cầu thiết kế, đưa vào vận hành, khai thác an toàn, hiệu quả.

Công tác quản lý quy hoạch, kiến trúc có nhiều đổi mới

Công tác quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đã có nhiều đổi mới; mục tiêu, định hướng quy hoạch đã bám sát, cụ thể hóa các chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các quy hoạch ngành liên quan của quốc gia, vùng, tỉnh và địa phương; chú ý nhiều hơn đến yếu tố thị trường. Việc tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch và quản lý đầu tư xây dựng, phát triển đô thị và nông thôn theo quy hoạch được áp dụng thống nhất trên cả nước và có nhiều chuyển biến tích cực.

Quy hoạch xây dựng vùng, các khu chức năng, quy hoạch đô thị và hạ tầng kỹ thuật được đẩy mạnh. Giai đoạn 2016 đến nay, Bộ Xây dựng đã thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 51 nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng;
02 đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật
. Tính đến nay, cả nước có
17 vùng liên tỉnh, 17 khu kinh tế ven biển, 17 khu kinh tế cửa khẩu, 03 Khu công nghệ cao và 22 Khu chức năng đặc thù khác đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch xây dựng.

Việc tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch và quản lý đầu tư xây dựng, phát triển đô thị và nông thôn theo quy hoạch được áp dụng thống nhất trên cả nước

Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương trong cả nước rà soát, điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch đô thị và đẩy nhanh tốc độ phủ kín quy hoạch xây dựng, hạ tầng kỹ thuật trên địa bàn, đặc biệt là tại các đô thị trung tâm, đô thị tạo động lực tăng trưởng, các khu vực phát huy tiềm năng, lợi thế về phát triển kinh tế - xã hội (các khu du lịch, khu kinh tế cửa khẩu...). Năng lực quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch của một số địa phương đã được nâng cao hơn.

Quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã hoàn thành về cơ bản. Tỷ lệ số xã có quy hoạch xây dựng nông thôn đạt 99,6%. Thông tin về quy hoạch từng bước được công khai. Việc cung cấp thông tin quy hoạch đã được triển khai rộng rãi. Năm 2019 đã hoàn thành Cổng thông tin điện tử quốc gia về quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị.

Công tác quản lý kiến trúc được coi trọng. Lần đầu tiên, các quy định về quản lý không gian, cảnh quan đô thị; quản lý kiến trúc, hoạt động và hành nghề kiến trúc; kiến trúc công trình ... đã được luật hóa trong Luật Kiến trúc. Đang nghiên cứu, điều chỉnh Định hướng phát triển kiến trúc Việt Nam và các mô hình kiến trúc xanh, tiết kiệm năng lượng, thân thiện môi trường, nhà ở ứng phó với biến đổi khí hậu.

Công tác quản lý phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật đô thị được thực hiện theo quy hoạch và kế hoạch

Công tác quản lý đầu tư phát triển đô thị đã từng bước được thực hiện theo quy hoạch và kế hoạch, có chuyển biến rõ nét, đã tăng cường sự kiểm soát thống nhất từ Trung ương đến địa phương; khắc phục từng bước những tồn tại về phát triển thiếu trọng tâm, trọng điểm, thiếu kiểm soát dẫn đến phát triển thiếu đồng bộ giữa mở rộng không gian, dân số và chất lượng cuộc sống của dân cư đô thị, lãng phí tài nguyên đất đai và nguồn lực của xã hội.

 Công tác nâng cấp, nâng loại đô thị có nhiều đổi mới theo hướng tập trung nâng cao chất lượng và tính đồng bộ của các đô thị. Từ năm 2016 đến nay đã có 16 đô thị loại I, II và 39 đô thị loại III, IV được công nhận mới. Đến thời điểm hiện tại, toàn quốc có 862 đô thị, trong đó có 02 đô thị loại đặc biệt, 22 đô thị loại I, 31 đô thị loại II, 48 đô thị loại III, 87 đô thị loại IV và 672 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hóa cả nước đạt khoảng 40%.

Tích cực triển khai thực hiện hiệu quả các Chương trình, đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: Nâng cấp đô thị quốc gia giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2020; Phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2012-2020; Phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu; Kế hoạch phát triển đô thị tăng trưởng xanh Việt Nam đến năm 2030; Phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018-2025 và định hướng đến năm 2030.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị (nhất là các đô thị lớn) đang từng bước được đầu tư, mở rộng và hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ với các hình thức đầu tư đa dạng. Năng lực của hệ thống hạ tầng kỹ thuật và khả năng tiếp cận các dịch vụ hạ tầng kỹ thuật được cải thiện rõ rệt. Các chương trình, định hướng, chiến lược về quản lý, phát triển hạ tầng kỹ thuật được tập trung thực hiện và đạt nhiều kết quả tích cực.

Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị đang từng bước được đầu tư, mở rộng

Công tác quản lý nhà và thị trường bất động sản tiếp tục được đẩy mạnh

Công tác phát triển nhà ở, trọng tâm là nhà ở xã hội theo Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia tiếp tục được đẩy mạnh, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhà ở người dân, đặc biệt các đối tượng người có công, người nghèo ở khu vực thường xuyên bị bão, lũ, ngập lụt, người thu nhập thấp đô thị. Tập trung tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc đối với các chương trình hỗ trợ về nhà ở. Thị trường bất động sản cơ bản được kiểm soát, tiếp tục tăng trưởng, chưa có dấu hiệu bất thường, cực đoan lớn. Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện đầu tư xây dựng khu hành chính tập trung; quản lý hiệu quả quỹ nhà ở công vụ của Chính phủ.

Quản lý phát triển vật liệu xây dựng được quan tâm, chú trọng

Bộ đã trình, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đang tổ chức thực hiện 03 đề án về vật liệu xây dựng; Chiến lược phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam thời kỳ 2021-2030, định hướng đến năm 2050 và Nhiệm vụ lập Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản làm vật liệu xây dựng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Công tác cải cách thủ tục hành chính, đổi mới điều kiện đầu tư kinh doanh, xây dựng Chính phủ điện tử

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến cải cách hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh như thẩm định dự án, thẩm định thiết kế xây dựng; cấp giấy phép xây dựng; tích hợp thủ tục thẩm định thiết kế xây dựng và cấp giấy phép xây dựng đối với một số trường hợp; quy định nguyên tắc thực hiện đồng thời thủ tục hành chính về xây dựng, phòng cháy chữa cháy, môi trường; điều kiện năng lực trong hoạt động xây dựng; quản lý chi phí đầu tư xây dựng; tăng cường phân cấp cho chính quyền địa phương.

Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng được tăng cường

Hoạt động thanh tra, kiểm tra của ngành Xây dựng tiếp tục được tăng cường, các chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra được giao và các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất theo yêu cầu hoàn thành đúng tiến độ với chất lượng, hiệu quả ngày càng cao, kết luận các cuộc thanh tra cụ thể, rõ ràng; các vi phạm, tồn tại được kiến nghị xử lý kịp thời và được đối tượng thanh tra nghiêm túc chấp hành. Qua đó đã góp phần quan trọng trong việc ngăn chặn, hạn chế tiêu cực, thất thoát, lãng phí xảy ra trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, bảo đảm trật tự, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của ngành Xây dựng.

Công tác tái cơ cấu doanh nghiệp và đổi mới đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ được tập trung chỉ đạo

Công tác tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước đã được tập trung chỉ đạo, thực hiện có kết quả, bảo đảm hiệu quả; tuy nhiên tiến độ thực hiện ở một số doanh nghiệp còn chậm do một số quy định pháp luật thay đổi; các địa phương chậm có ý kiến về phương án sử dụng đất và giá đất; lãnh đạo một số doanh nghiệp chưa thực sự chủ động và quyết liệt.

Thực hiện kế hoạch về các giải pháp đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW. Các đơn vị sự nghiệp của Bộ đã tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động, kịp thời kiện toàn tổ chức, cán bộ, nhân lực phục vụ tốt công tác quản lý nhà nước của Bộ và nhiệm vụ của đơn vị trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, khám chữa bệnh và chăm sóc y tế cho ngành và địa phương.

Hoạt động khoa học công nghệ và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực được đẩy mạnh

Tiếp tục thực hiện Chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành Xây dựng, lồng ghép các Chương trình khoa học công nghệ trọng điểm và các Đề án, trọng tâm là nghiên cứu cơ sở khoa học, thực tiễn, xây dựng các quy định, giải pháp, công cụ nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách phục vụ quản lý nhà nước của ngành; nghiên cứu ứng dụng công nghệ tiên tiến trong thiết kế xây dựng công trình, các giải pháp trong quy hoạch kiến trúc... nhằm bảo vệ môi trường thích ứng với biến đổi khí hậu để giải quyết kịp thời các vấn đề lớn của Ngành các vấn đề bức thiết của xã hội.

Thực hiện có hiệu quả Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng, đến hết tháng 6/2020 tổng số lao động làm việc trong ngành Xây dựng là 4.568.100 người, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 14,1%. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động trong các cơ quan quản lý nhà nước là 41.094 người; trong đó hầu hết nhân lực trong các cơ quan các cấp trung ương và cấp tỉnh có trình độ từ đại học trở lên; cấp huyện, cấp xã có trình độ từ trung cấp trở lên.

Đội ngũ cán bộ ngành Xây dựng được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên

Hoạt động hợp tác quốc tế được thực hiện tốt

Tham gia hiệu quả các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác song phương và đa phương theo hướng nâng cao hiệu quả hợp tác, tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, trọng tâm của ngành, nhất là công tác hậu gia nhập WTO, CPTPP, APEC, EVFTA, hợp tác trong khối ASEAN, ASEAN+ và ASEAN+6 và các đối tác ngoài khối. Thực hiện tốt vai trò Chủ tịch mạng lưới đô thị thông minh ASEAN năm 2020 với nhiều hoạt động thiết thực.

Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan tăng cường nghiên cứu, thu thập thông tin, tận dụng các diễn đàn, hội nghị để tiếp cận các nhà tài trợ và vận động các dự án viện trợ không hoàn lại theo hướng tận dụng các ưu tiên hỗ trợ của Chính phủ nước ngoài và phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành, bao gồm các dự án trong lĩnh vực hạ tầng kỹ thuật đô thị, bảo vệ môi trường, quy hoạch, quản lý phát triển đô thị, nhà ở xã hội.

Công tác thông tin tuyên truyền đầy đủ, kịp thời, chính xác

Thực hiện nghiêm quy chế người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí; chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về các hoạt động của Ngành và những vấn đề dư luận quan tâm. Các cơ quan báo chí, truyền thông trực thuộc Bộ đã tích cực đầu tư cơ sở vật chất, kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng cán bộ, phóng viên, đổi mới phương thức truyền thông, hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích. Tích cực tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước và hoạt động của ngành Xây dựng.

MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU CHỦ YẾU 5 NĂM 2021-2025

Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020 và các dự thảo báo cáo chính trị, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, Bộ Xây dựng dự kiến bước đầu một số phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của ngành Xây dựng 5 năm 2021-2025 như sau:

Phát triển ngành Xây dựng theo hướng hiện đại, nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu phát triển, phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và dựa trên cơ sở nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới, sáng tạo, tận dụng tốt nhất cơ hội phát triển của khoa học công nghệ, Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chủ động hội nhập quốc tế. Đủ năng lực thiết kế và thi công các công trình với mọi quy mô trong tất cả các lĩnh vực đáp ứng theo yêu cầu phát triển của đất nước, mở rộng thị trường xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam ở nước ngoài. Phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng theo hướng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên khoáng sản, thân thiện với môi trường, có hàm lượng công nghệ cao, đáp ứng nhu cầu trong nước, tăng cường xuất khẩu vật liệu xây dựng cao cấp, phát triển các vật liệu xây dựng mới.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế, hệ thống công cụ quản lý về xây dựng, đảm bảo tính đồng bộ, phù hợp với thực tiễn, tạo môi trường thuận lợi, bình đẳng, minh bạch cho các chủ thể tham gia các hoạt động đầu tư xây dựng nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong các lĩnh vực của Ngành.

Gắn kết tiến trình đô thị hóa với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đổi mới tư duy và phương pháp luận về công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Hoàn thiện cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch. Từng bước hình thành hệ thống đô thị, phân bổ hợp lý trên cả nước, nhất là ở miền núi và duyên hải. Tạo bước chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển đô thị trên cơ sở đáp ứng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; phát triển đô thị thông minh, đô thị xanh để khu vực đô thị thực sự là động lực chủ yếu, đầu tàu phát triển kinh tế - xã hội, trung tâm đổi mới sáng tạo của từng vùng và của cả nước.

Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu thị trường bất động sản, đổi mới, bổ sung cơ chế chính sách, công cụ quản lý để kiểm soát, bảo đảm thị trường bất động sản phát triển ổn định, hiệu quả; thúc đẩy phát triển nhà ở thương mại giá thấp và nhà ở xã hội khu vực đô thị, nhà ở cho công nhân khu công nghiệp, nhà ở xã hội cho thuê, nhà ở cho hộ nghèo ở nông thôn và vùng thường xuyên chịu tác động bất lợi của thiên tai.

Gắn kết tiến trình đô thị hóa với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Kết hợp hài hòa giữa giải quyết các vấn đề cấp bách với các vấn đề cơ bản, dài hạn; gắn kết phát triển ngành Xây dựng với củng cố quốc phòng, an ninh, với bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Xây dựng bộ máy ngành Xây dựng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và tăng cường phân công, phân cấp một cách hợp lý, bảo đảm sự quản lý thống nhất, chỉ đạo thông suốt từ trung ương đến địa phương, phát huy sự chủ động, sáng tạo của địa phương. Tập trung đào tao, phát triển nhân lực ngành Xây dựng đáp ứng yêu cầu mới, gắn kết chặt chẽ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và học tập, làm theo gương đạo đức Hồ Chí Minh. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, tích cực của các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong toàn ngành Xây dựng.

Một số chỉ tiêu của yếu của Ngành giai đoạn tới như sau: Tốc độ tăng trưởng bình quân: 6-8%/năm. Duy trì tỷ lệ 100% phủ kín quy hoạch chung đô thị. Tỷ lệ đô thị hóa: đạt khoảng 45%. Tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đạt 100%. Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 90%. Diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng 26-27 m2 sàn/người. Trong đó: Diện tích nhà ở bình quân đầu người khu vực đô thị đạt khoảng 26m2/người. Diện tích nhà ở bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt khoảng 25m2/người.

Với mục tiêu trên, Ngành đã đề xuất các nhiệm vụ, đề án đưa vào Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025. Đề xuất được bổ sung biên chế cho Bộ Xây dựng. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tổng kết Đề án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị theo Quyết định số 1961/QĐ-TTg ngày 25/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo bổ sung tiêu chí về đào tạo chuyên môn nghiệp vụ trong tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo quản lý xây dựng, đô thị các cấp và xây dựng kế hoạch, chương trình đào tạo cán bộ hàng năm.


 

 


Tạp chí xây dựng và đô thị
Lượt xem: 156  |  Chia sẻ: 0

Tin có liên quan

Loading ...